KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH RA LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946-19/12/2021)

Thứ ba - 21/12/2021 09:18 256 0

ThS Lê Thị Thúy Hà

Khoa Xây dựng Đảng

Ngày 19/8/1945 Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ chế độ thực dân và phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; mở ra thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – khẳng định nền độc lập, vị thế của đất nước và dân tộc Việt Nam, địa vị làm chủ của nhân dân ta, đồng thời đó cũng là biểu tượng của tinh thần Việt Nam, quyết tâm bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sự đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng tháng Tám đã thắng lợi” và “…lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc[1]

Ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ và xác định 6 vấn đề cấp bách Chính phủ phải tập trung giải quyết là: giải quyết “giặc đói”; thanh toán “giặc dốt”; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục lại nhân dân theo tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; bỏ ngay các thứ thuế bóc lột vô nhân đạo và thực hiện tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết.

Những ngày cờ hoa rực rỡ của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và lễ Độc lập đi qua rất nhanh. Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên vừa được thành lập đã phải bước ngay vào cuộc đấu tranh quyết liệt, quyết tử để bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được. Chỉ 21 ngày sau Ngày độc lập (23/9/1945), quân và dân Nam Bộ “Thành đồng Tổ quốc” đã quyết tâm “đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến” với khí thế “rền khắp trời lời hoan hô dân quân Nam nhịp chân tiến lên trận tiền”, bắt đầu bước vào cuộc trường chinh chống thực dân Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta vừa kiên trì kháng chiến để bảo vệ Nam Bộ với quan điểm: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”[2]; đồng thời, tìm cách hòa hoãn không để xảy ra chiến tranh trong phạm vi cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946. Thực hiện sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa với Tưởng để đánh Pháp, lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc và triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách ngặt nghèo trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Chúng ta đã chủ động hòa hoãn, kéo dài thời gian hòa bình để có thêm thời gian chuẩn bị trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lường trước.

Thực dân Pháp vẫn tiếp tục khiêu khích. Máu của nhân dân ta đã đổ ở Hà Nội và nhiều địa phương khác. Nền độc lập tự do đã bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Nhân dân ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng nhưng thực dân Pháp càng dã tâm xâm lược đất nước ta một lần nữa, buộc nhân dân ta phải cầm súng để bảo vệ nền độc lập và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc. Trước  tình hình đó, ngày 18 và 19/12/1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Đêm 19/12/1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn nǎm!

Kháng chiến thắng lợi muôn nǎm!”[3]

 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được phát trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam trong 1 phút 30 giây. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến như một lời hịch cứu nước, như tiếng gọi của non sông. Tất cả hãy đứng lên, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Lời kêu gọi ấy đã thôi thúc cả nước sục sôi đứng lên chiến đấu, vì độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ3.

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Tây Ninh cũng bước vào thời kỳ cùng cả nước kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài. Thực hiện sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, nhân dân Tây Ninh đã bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, xây dựng và bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng Trung ương Cục miền Nam – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng ở miền Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hòa chung với lịch sử vẻ vang của dân tộc, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo quân và dân Tây Ninh một lòng đi theo Đảng, vượt qua gian khổ, hy sinh, đoàn kết anh dũng chiến đấu, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo lập nên những chiến công vang dội, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, xứng đáng với truyền thống Tây Ninh “Trung dũng, kiên cường”, quê hương của “Căn cứ địa cách mạng”.

75 năm trôi qua, Lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn vang vọng đâu đây, vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử của một tác phẩm được công nhận là “Bảo vật quốc gia”. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, là lời hịch cứu nước, có tác dụng cổ vũ, thôi thúc và động viên toàn dân nhất tề đứng lên đánh giặc, là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, đất nước, thôi thúc cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu mới để giành độc lập dân tộc.

 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã xác định đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là: Toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh.  Toàn dân tộc, bao gồm mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giáo, đảng phái cùng tham gia đánh Pháp và đánh giặc bằng bất cứ thứ vũ khí gì có thể; đồng thời, Người cũng chỉ rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải trải qua gian khổ, hy sinh, nhưng “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã để lại những bài bài học sâu sắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay với những thời cơ và cả thách thức mới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực, với âm mưu thủ đoạn hết sức tinh vi. Đòi hỏi chúng ta là phải luôn chủ động, tỉnh táo, cảnh giác, linh hoạt giữa hợp tác với đấu tranh vì lợi ích cao nhất của đất nước. Phải “Dùng đối ngoại để phòng ngừa, ngăn chặn chiến tranh hoặc để sớm kết thúc chiến tranh trong vị thế có lợi nhất; đối ngoại phải luôn luôn phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đối nội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những tư tưởng, triết lý vượt thời đại của cha ông ta, mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị” [4]

Trong giai đoạn hiện nay, tinh thần của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vẫn tiếp tục là cẩm nang về những biện pháp linh hoạt, mềm dẻo trong quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cần phải biết giữ vững nguyên tắc chiến lược, đồng thời linh hoạt về sách lược nhằm “thêm bạn, bớt thù”, tránh được các xung đột và chiến tranh, thực hiện hòa nhập nhưng không “hòa tan” trong quan hệ quốc tế. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện quan trọng, mang tính chỉ đạo không chỉ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, mà còn là kim chỉ nam để Đảng ta từng bước hoàn chỉnh thành đường lối, chỉ đạo quân và dân ta tiến hành hai cuộc kháng chiến, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như cả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, tr12

[2] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 280.

[3] [3] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr.534

[4] Bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng tại Hn công tác đối ngoại toàn quốc ngày 14/12/2021

 

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây